Cuối năm 2007, nghe tin nhà văn Sơn Nam bệnh, tôi đến thăm ông. Nhà văn Nam Bộ kiêm ông vua đi bộ danh tiếng bấy giờ ốm nhách, cơ bản chỉ còn một vài chút thịt ở đùi và tay. Còn cơ bắp thì mỏng như lá lúa. Ông mặc bộ pijama, nằm xuôi cò trên giường. Hai chân ông dường như đã tê liệt, nhưng đôi tay và cái miệng thì hoạt động khá tốt. Bằng chứng là khi tôi châm điếu thuốc đưa gần tới môi ông, ông còn… cầm được điếu thuốc, sảng khoái rít từng hơi dài. Ông nói với một trung khí đầy rẫy:
Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển
– Ê mầy, vài hôm nữa tao khỏe, hai anh em mình đi xuống miệt Bình Dương chơi. Dưới đó còn mấy ngôi chùa hay lắm. Tao xuống đó… Nghiên cứu; mầy đọc cho tao mấy câu đối liễn chữ Hán.
Nghe ông nói, tôi vừa thương, vừa buồn cười. Tôi nói:
– Chân cẳng anh vầy mà đi Bình Dương với Bình Định chi nữa hở trời? Em đến thăm anh một chút cho anh đỡ buồn. Vậy thôi. Còn chữ Hán chữ Tàu thì em quên sạch sành sanh rồi. Bỏ chuyện đi chơi đi. Anh cố gắng tịnh dưỡng cho khỏe để tiếp tục ngồi dậy viết sách… Nói dóc, đem lại niềm vui cho đời.
Sơn Nam tiên sinh phản ứng nhanh cấp kỳ:
– Ê, tao nói dóc hồi nào mậy?
– Trời ơi, anh nói dóc thầy chạy luôn. Này nhé, trong Hương rừng U Minh, anh kể chuyện ông Năm Hên bắt sấu ở rạch Cái Tàu. Anh viết: “Tiếp theo lái xuồng là một bầy sấu. Con này buộc nối đuôi con kia, đen ngòm như khúc cây khô dài. Mỗi con sấu, hai chân sau thúc ké trên lưng, hai chân trước tự do, quạt nước cầm chừng…”.
– Ừ, đúng vậy đó. Tao viết vậy, rồi sao?
– Anh làm cho độc giả đau khổ vô cùng.
– Độc giả nào?
– Em chứ ai nữa. Anh viết, để bắt nguyên bầy sấu bốn mươi mấy con đó, Năm Hên chỉ uống một chung rượu rồi đào một đường nhỏ xuống ao sấu. Ổng chặt một cây mốp tươi, cắt ra từng khúc chừng ba tấc. Năm Hên đứng trên gió, châm lửa vô sậy đế cho khói bốc ra mù mịt. Khói phủ xuống đầm sấu. Bầy sấu bị cay mắt, ngộp thở phải theo đường đào bò lên rừng; con nhỏ bò trước, con lớn bò sau. Con nào thấy Năm Hên cũng há miệng, định táp. Năm Hên đút vô miệng sấu một khúc móp; sấu táp vào dính cứng hai hàm răng như mình ngậm nhằm một cục mạch nha bự. Năm Hên cầm mác, xắn nhẹ cắt gân đuôi từng con, trói thúc ké hai chân sau của nó rồi cột một khúc dây vào đoạn mốp dắt sấu đi kiểu như người ta dắt chó. Bầy sấu rạch Cái Tàu bị bắt, dẫn ra sông. Năm Hên cột sấu sau đuôi thuyền rồi giao cho Tư Hoạch chèo đi. Con sấu chúa có cái tam tinh ở giữa cũng bị truy quét trong chiến dịch này.
– Ờ, thì đúng vậy đó.
– Anh báo hại em tin anh sái cổ. Hồi nhỏ, em đang là học sinh ở Quảng Nam, vì lỡ đọc và mê Hương rừng Cà Mau của anh, mới vô Nam học đại học rồi chọn về xứ Bạc Liêu đi dạy. Chân em đi khắp rừng U Minh, qua tận rạch Cái Tàu. Hỏi thăm bà con chuyện ông Năm Hên bắt sấu; họ nói ở đây làm gì có ông nào tên là Năm Hên với Sáu Xui? Mà rạch Cái Tàu cũng không còn một con sấu nào làm thuốc. Cậu muốn mua sấu, sao không lên… Sài Gòn mà mua? Sấu bây giờ ở trên cạn, đâu còn ở dưới sông mà cậu xuống miệt này tìm cho mắc công.
Sơn Nam tiên sinh cười khà khà:
– Đó là tao kể chuyện rừng U Minh trước năm 1954, khi ấy mầy còn là một thằng nhỏ thò lò nước mũi. Mầy về U Minh từ năm 1970. Làm sao còn ông Năm Hên với bầy sấu nữa mầy?
Rồi ông dịu giọng, nói đủ nghe:
– Nói thật với mầy: Viết văn mà không nói dóc chút đỉnh thì không ra hồn vía văn chương. Văn chương mà nói toàn chuyện thiệt thì ai đọc?
Tôi ủng hộ ông:
– Đúng vậy, thưa anh. La Quán Trung viết Tam Quốc chí bảy thực ba hư. La Quán Sơn Nam tiên sinh tên thật là Phạm Minh Tày, sinh tại Kiên Giang, viết Hương rừng Cà Mau năm thực năm hư. Đọc chuyện nói dóc của tiên sinh, cứ nghe sướng ran cả người.
Ông Sơn Nam cao hứng:
– Được mầy khen một tiếng, tao mừng ba năm. Nói vậy nghe được đó mầy. Còn tao nhận xét: Mầy viết nhạc một thực chín hư. Nếu tao là tay nói dóc Nam Bộ thì mầy là thằng nói dóc Trung Bộ, nói dóc kiểu Quảng Nam.
Tôi cố cãi lại ông:
– Em nói dóc chỗ nào?
– Mầy không chối được đâu, mầy ơi. Mầy viết bài Điệu buồn phương Nam, có đoạn ca từ: “Con sáo sang sông/ Sáo đã sổ lồng/ Bay về Bạc Liêu, con sáo bay theo phương người/ Bay về Trà Vinh, con sáo bay qua đời tôi”. Tao là dân Nam Bộ rặt, phải nói cho mầy biết chim sáo chỉ đậu trên lưng trâu, mổ vào da trâu ăn mấy con rận. Vào mùa nước nổi ở Nam Bộ, trâu được len hết ráo qua miệt Thất Sơn, còn con trâu nào đâu cho sáo đậu? Mà con sáo chỉ bay vài trăm thước là đậu lại. Cánh nó ngắn, không dài như cánh cò nên không bay xa được. Mầy đứng ở đâu trong Khu tứ giác Long Xuyên mà nhìn thấy con sáo bay xa trên 250 cây số về tận Bạc Liêu với Trà Vinh? Mầy là thằng nói dóc có căn.
Bị Sơn Nam tiên sinh sử Ưng trảo cầm nã thủ chụp đúng yếu huyệt Mạch môn, tôi hạ giọng năn nỉ:
– Em xin lỗi anh. Xin anh đừng nói lớn.
– Lỗi phải gì mầy ơi. Hồi hai mươi tuổi, mầy đã nói dóc tổ mẹ rồi. Tao nghe bài hát Thu, hát cho người của mầy mà buồn cười: “Ta vẫn chờ em dưới gốc sim già đó/ Để hái dâng người một đóa đẫm tương tư”. Văn chương bay bổng, tình ý chân thành nhưng xin lỗi mầy, mầy nói dóc có căn có đế. Tao đã ra chơi đất Quảng Nam, thấy cây sim trên rừng Quảng Nam của mầy lùn beo, thấp xỉn. Mùa thu miền Trung trời nắng chang chang, mầy ngồi chỗ nào dưới gốc sim mà đợi con nhỏ đó tới? Mà cái rừng sim thưa rỉnh thưa rảng, con nhỏ đó có vác mặt tới thì mầy “mần ăn” gì được?
Tôi thiếu điều quỳ lạy ông Sơn Nam:
– Hồi đó, em còn ngây thơ trong trắng, chưa biết và cũng chưa dám “mần ăn” gì. Xin anh nói nho nhỏ, đủ nghe. Nói thật với anh, khi viết ca khúc, em cũng có nói dóc chút đỉnh trong ca từ như anh nói. Ca từ trong ca khúc mà không nói dóc thì cũng chẳng ra hồn vía gì. Em xin hứa với anh, qua năm tới, em không nói dóc nữa.
Năm tới tức là năm 2008. Cái chi cũng phải cần một lộ trình. “Cai” nói dóc cũng cần có lộ trình đàng hoàng như cai thuốc lá. Ngày Sơn Nam tiên sinh qua đời, tôi đến viếng vong linh ông. Nhìn ông nằm nghiêm chỉnh trong quan tài, tôi đổ nước mắt khóc và nhớ thương ông. Rồi nghĩ đến kỹ thuật nói dóc của ông và chuyện ông phê phán tôi nói dóc, tôi lại buồn cười. Hỡi Sơn Nam tiên sinh! Tôi đã hứa với ông rằng tôi sẽ cai nói dóc nhưng vẫn chưa bỏ được thói nghiện nói dóc.
Tháng 10-2008, tỉnh Bạc Liêu tổ chức kỷ niệm ngày ra đời bài Dạ cổ hoài lang của cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu. Ủy ban tỉnh có nhã ý mời tôi về chơi. Tôi trở lại Bạc Liêu trong tâm trạng đứa con trở về nhà mình. Thôi thì ăn chơi mệt nghỉ: Tôi ăn ngon, ngủ tốt, nói cười thoải mái, nghe ca hát, xem nhảy múa tưng bừng. Khi trở về, mấy anh chị còn gởi cho một bịch nylong bự, trong đó có cá khô, tôm khô và hũ mắm cá chốt.
Cá chốt Bạc Liêu từng nổi tiếng trong… Ca dao. Nó là con cá chốt giấy, trước đây lềnh khênh trong sông rạch Bạc Liêu, bà con câu lên nấu cháo cho heo ăn. Bây giờ, người Bạc Liêu đào vuông nuôi tôm, cua, cá kèo. Cá chốt theo con nước vào vuông, thường trú ở đó; con nào con nấy đều được nuôi dưỡng tử tế, mập mạnh, da dẻ trắng non, mình mẩy tròn lẳng như cánh tay hoa hậu. Nói quý cô tha lỗi, da cá chốt Bạc Liêu còn mịn và láng hơn cả da hoa hậu. Bà con bắt nó làm mắm, dâng cho đời chút hương vị miền quê biển. Tôi không ăn được mắm nên đem hũ mắm tặng cho ông bạn luật sư.
Luật sư ăn mắm xong, mà rằng:
– Mắm cá chốt Bạc Liêu ngon quá, ông ạ. Bình thường, xương cá chốt cứng lắm mà sao tôi ăn mắm này lại không thấy xương?
Tôi lấy phong cách đạo mạo, ân cần giảng giải:
– Đây là kỹ thuật làm mắm bí truyền của người Bạc Liêu. Anh nên nhớ Bạc Liêu là miền đất hội tụ ba nguồn văn hóa Việt – Hoa – Khmer nên cách làm mắm của bà con cũng có… Văn hóa rất đặc biệt. Làm cá chốt sạch sẽ xong đợi đúng giờ Ngọ, người ta mới ủ con cá chốt trong muối. Ủ đúng ba ngày, người ta đem ra dang nắng hai ngày cho thịt con cá mềm ra. Sau đó là một khâu cực kỳ quan trọng: Ông chủ vựa mắm phải đích thân mượn cái nhíp nhổ lông mày của cô em út vợ mình – mà nhớ là nhíp nhổ lông mày chứ không phải là nhổ thứ lông gì khác à nghen – nhẹ nhàng luồn vào thân cá chốt kéo từng khúc xương ra. Quá trình nhổ xương phải nhẹ tay và khéo léo, tránh làm cho thân thể ẻo lả của con cá chốt bị thương tổn. Ông ăn mắm không thấy xương là nhờ vậy.
Tay luật sư nghe tôi giảng đạo lý làm mắm, phục bà con Bạc Liêu sát đất, lại khen tôi có trí nhớ tốt và hiểu biết sâu về văn hóa làm mắm Nam Bộ. Tuần sau, luật sư tới rủ tôi uống cà phê, chửi:
– Ông nói dóc tổ mẹ. Tôi điện xuống ông bạn ở Sở Công thương Bạc Liêu hỏi, anh ta bảo có lấy nhíp nhổ xương gì đâu. Chẳng qua là người ta thêm một chất phụ gia vào mắm thì xương cá chốt mềm ra. Làm gì có chuyện ông chủ mượn nhíp nhổ lông mày mà không được mượn nhíp nhổ lông nách của con em vợ? Sao ông nói dóc quá vậy ông?
Tôi ngoan cường cãi lại:
– Đừng nóng. Bình tĩnh. Ông có biết tỉnh Minh Hải không?
– Biết. Mà sao?
– Sau ngày giải phóng, hai tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu nhập lại làm một, gọi là tỉnh Minh Hải. Ở Cà Mau có người nào nói dóc chọc cười danh tiếng?
– Bác Ba Phi. Mà sao?
– Tôi sinh ra tại Quảng Nam nhưng lập nghiệp ở Bạc Liêu nên được bà con ở Bạc Liêu coi là dân Bạc Liêu. Mà hễ là dân Bạc Liêu, tôi có ảnh hưởng cách nói dóc của bác Ba Phi chút đỉnh thì cũng là người Minh Hải ảnh hưởng người Minh Hải. Đâu có gì lạ mà ông nổi nóng? Vô lẽ ở trong cùng địa phương với bác Ba Phi mà việc gì tôi cũng phải nói thiệt với ông?
Anh bạn luật sư đớ lưỡi, cứng họng. Có thế chứ.
Nói dóc là cách nói quá sự thật, nói sai sự thật nhằm mục đích tạo ra nụ cười, giúp thỏa mãn nhu cầu giải trí cho người nghe. Người Quảng Nam chúng tôi gọi nói dóc là nói láo; người Quảng Trị gọi nói dóc là nói trạng. Người Quảng Nam có năng khiếu hài hước nên nói láo có ở khắp nơi.
Nói láo có tính mục đích rõ ràng, chỉ nhằm chọc cười thiên hạ, không gây ra thiệt hại cho người nghe; không hàm ý lừa gạt, phỉnh phờ người nghe. Nói láo là một nét văn hóa bình dân Quảng Nam, là hình thức tấu hài khá trí tuệ; khác hẳn với nói xạo, nói phỉnh, nói gạt, nói điêu. Trong mấy thứ “nói” vừa kể, người nói thường muốn đạt một mục đích, một lợi ích cho mình và có thể gây hại cho người nghe. Riêng nói láo Quảng Nam chỉ nhằm mục đích… gây cười phục vụ cho đời.
Đất nước ta có một số nhân vật nói láo danh tiếng được nhiều người biết đến như Trạng Quỳnh, Xiển Bột, Ba Giai, Tú Xuất, Ba Phi, Thủ Thiệm… Những câu chuyện họ kể lại có thể được người đời sau thêm mắm dặm muối, trở thành những chuyện giải trí thú vị, độc đáo. Tỉnh Quảng Trị có hẳn một làng nói trạng Vĩnh Hoàng. Nhiều câu chuyện của làng nói trạng Vĩnh Hoàng đã được ghi lại trong sách vở.
Tu từ pháp Việt Nam có phép ngoa dụ, nghĩa là nói quá sự thật. Mục đích của ngoa dụ là nói cho cố để đạt tới mức độ sai sự thật, gây ấn tượng cho người đọc, người nghe. Ca dao đã thể hiện phép ngoa dụ đó:
Lỗ mũi em mười tám gánh lông,
Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
Đêm nằm em ngáy pho pho,
Chồng thương chồng bảo ngáy cho vui nhà.
Ở đây, không thể dùng nhãn quan chính trị để bảo ca dao bêu riếu, thô bỉ hóa hình ảnh của người phụ nữ Việt Nam. Ở đây, đơn giản là nói láo cho vui, thể hiện tình chồng yêu thương vợ đến nỗi cái xấu nhất cũng trở thành cái đẹp nhất. Mà tôi nói thiệt, có cô nào thật bụng thương tôi thì dù trong lỗ mũi có tới … Mười chín gánh tôi cũng dám gánh chứ đừng nói mười tám. Ấy là tôi… Nói láo nghe chơi vậy chứ nửa gánh đã đủ bỏ của chạy lấy người rồi.
BT: Vương Chi Lan