Người ta thường gọi dì Hai “Bà Già Trầu” nay dì không ăn trầu người ta lại gắn thêm cái tên : “Bà Còng” Hỏng hiểu sao mà di Hai có tên đó! Nhưng thấy dì rất vui với cái tên này! Mỗi lần đi chợ về ngang qua xóm con nít tủa ra chúng còm cái lưng xuống đấm đấm hát: “ Bà Còng đi chợ về trưa… bỏ quên ống ngoáy…”
Dì Hai thủ sẳn một bịch kẹo phát cho mỗi đứa, chúng cười hỉ hạ. Lại hôm sau chúng cũng chào mừng bằng cách đó! Dì rất thương con nít, bởi dì hiếm con chỉ mỗi một mình chị Vân. Vân bằng tuổi tôi, cùng học chung trường nên tôi thường tới lui nhà dì chơi. Do vậy, trong số các chị em của má dì Hai là người thân thương với tôi nhứt. Vân học hết cấp 3 thi rớt đại học có chồng xa bỏ dì Hai một mình. Tôi tiếp tục lên đại học, thấy dì ở nhà một mình nên thường khi tôi về với dì Hai.
Cuộc đời dì Hai với tôi là một kho tàng bí ẩn, lâu lâu dì hé mở một vài chuyện, chuyện nào cũng hấp dẫn đáng nhớ!
Những đêm ngủ chung với dì, dì thường dạy tôi cách ứng xử với đời, làm thân gái nên giữ gìn tánh hạnh. Lúc đầu tôi không ưa cho mấy nên đôi khi dì nói êm tai tôi ngủ khì, chợt giấc còn nghe lời dì mới biết mình đã ngủ. Gần đây tôi va chạm vào đời tìm hỏi dì, dì lại ít nói. Khéo dẫn dụ lắm dì mới xì ra một vài điều, trông dì như ẩn chứa một tâm trạng gì đó! Gần đây thôi, tôi chợt thức giấc thấy dì ngồi chậm nước mắt, tôi biết dì khóc! Và có lẽ đã khóc như thế suốt quảng đời đi qua. Tôi vừa lau nước mắt cho dì vừa chia sẻ bằng cách khuyên dì đi ngủ, giữ gìn sức khỏe. Nhưng tôi thấy lời khuyên của mình không có hiêu quả cho mấy. Có những khi tôi tắm gội đầu ngồi hong tóc bên cửa sổ dì đến nâng nâng mái tóc của tôi khen:
-Tóc của con dài đen mượt đẹp quá! Ngày xưa tóc của dì cũng vậy! Nhưng lúc ấy, đâu có xà bông gội đầu, không có dầu sức tóc cao cấp như bây giờ! Nhưng tóc con gái cũng đen óng mượt. Con có biết lúc ấy sức tóc bằng gì không! Bằng dầu dừa của ngoại. Người ta nạo dừa khô vắt lấy nước béo bỏ vô chảo thắng. Đun lửa cho đến khi bồng con, phần nước thành dầu, phần cái là cứt dầu. Cứt dầu ăn ngon béo và dòn hết cỡ. Con nít bu xung quanh chờ ăn cứt dừa, mỗi đứa ngoại chỉ cho hai muỗng ăn canh thôi vì đâu có nhiều. Ăn quen, mỗi lần ngoại thắng dầu không sao giấu được con nít. Mùi dầu dừa lên tóc tiết ra mùi thơm rất đặc biệt. “Phụ nữ thơm mùi khác, con gái thơm mùi khác. Mà ngộ nghen, mùi thơm không ai giống ai cũng cùng sức chung dầu dừa.”-Anh Hưng bạn trai của dì nói vậy.
Có lần đó giặc đi càn đông lắm, trên máy bay quần đảo dưới xe lội nước lính bộ lùng sục. Đơn vị của dì được lệnh xuống hầm, hầm chứa hơn chục người, phần đông là nữ đội ca múa của văn công huyện chỉ có anh Hưng là cán bộ ở Bắc mới vào công tác. Dưới hầm bóng tối nhá nhem đông người như vậy mà anh Hưng nhận ra dì. Sau này dì hỏi Hưng: “ Sao anh nhận ra em!” Hưng cười: “ Chính em đã giới thiệu với anh mà!” “ Em nào có nói gì đâu dưới hầm lo đối phó với giặc!” “Không ai khác hơn là mùi tóc của em đã cho anh biết! Mỗi cô gái có mùi tóc khác nhau, ít ai giống ai khi sức dầu dừa. Những mùi nước hoa bán ở chợ có mùi đặc trưng giống nhau khi các cô dùng chung nước hoa. Còn dầu dừa ngược lại, nó thay đổi tùy theo mồ hôi của tùng người, từ đó tạo ra một mùi rất riêng.
-Anh Hưng gì đó là cha của chị Vân hả dì!- Tôi hỏi.
Dì Hai lắc đầu buồn buồn:
-Không phải! Cha của Vân là người khác!
Tôi trố mắt nhìn dì. Dì Hai kể:
-Anh Hưng hy sinh trên đường ngày về dự lễ tuyên hôn với dì, chỉ trước ba giờ. Ba giờ con số định mệnh nghiệt ngả với người thanh niên ở Bắc vào Nam. Ba giờ, con số phủ phàng với đời con gái của dì. Anh Hưng hy sinh mang đi hai phần tầm hồn của dì, dì chỉ còn lại phần thể xác không hồn. Ngoại và các anh trong đơn vị hết lời an ủi, dì không muốn ai bận tâm với mình nên dì giấu nỗi buồn đau vào lòng. Nỗi đau không thốt ra được lâu ngày càng khoét sâu hơn biến dì thành chai sạn tình cảm.
-Vậy chi Vân con của ai! – Tôi hỏi.
-Là con của dì chớ ai!
-Cha của Vân là ai!
Dì Hai không trả lời câu hỏi của tôi mà đôi mắt đượm buồn. Thấy vậy tôi lãng sang chuyện khác. Có lần dì Hai sáng thức dậy sớm đi chợ mua thịt cá đầy giỏ. Tôi hỏi cắc cớ: “ Mua đám giỗ hay sao mà nhiều dữ vậy dì!” Dì Hai nhìn tôi rưng rưng nước mát: “ Đám giỗ cha mẹ con Vân.” Tôi chợt chưng hửng. Hỏi: “Là dì chớ còn ai đâu nữa!” “ Dì chỉ là mẹ nuôi thôi!”
– Sau khi anh Hưng hy sinh chẳng được bao lâu thì đứa bạn thân nhứt của dì là Lệ cũng hy sinh. Lệ là cán bộ phụ nữ huyện kết hôn với Tùng Huyện đôi phó, hai đứa rất hạnh phúc, sau hai năm chung sống cho ra đời bé Vân. Ngày ăn thôi nôi của bé Vân lính đổ quân đen con ngoài đồng rồi triển khai đội hình đánh vào vườn trâm bầu nơi đơn vị Lệ đóng quân. Tùng đóng quân bên này thấy rõ Vân bị thương và bị bắt sát hại tại chỗ. Tùng quá kích động điều anh em đánh thóc ngang sườn đội hình của giặc. Trận đó ta coi như thắng. Nhưng phải hy sinh Huyện đội phó Tùng, đáng lẽ ra Tùng không phải hy sinh như vậy, nhưng có lẽ vì nóng lòng thương Lệ nên liều lỉnh xông thẳng vào trận địa. Anh bị một viên đạn ở cổ đứt động mạch chính máu ra nhiều quá không cầm được. Trong giây phút cuối cùng Tùng còn kịp gởi gắm đứa bé lại cho dì. Dì mang Vân về nhà ngoại nói là con của dì, mọi người tin như vậy! Dì một tay ôm con, một tay đánh giặc lao động sản xuất, biết bao gian nan mà dì đã trải qua. Yên giặc, dì đã lỡ thì thành bà già trầu với lòng chai sạn.
-Sao dì ăn trầu chi vậy! Có ngon lành gì mà ăn!
-Biết vậy, nhưng lúc ấy dì tham gia công tác quân báo cho Tỉnh đội, để dễ dàng qua mắt giặc phải cãi trang làm bà già trong khi dì mới hai lăm tuổi. Miệng dì nhai trầu, mặc bộ áo bà ba quần đáy nem, dì bỗng trở thành bà già bốn mươi, đám lính gọi bằng bà tức cười trong bụng. Con biết hôn, mới lần đầu ăn trầu cay nồng không thể chịu nổi, lớp nào nhứt đầu choáng váng mặt mày, hai con mắt nóng hừng hực. Miếng sau, miếng sau… dần rồi quen, ghiền luôn. Không có trầu miệng lạt nhách, buồn bực. Có trầu đầu óc sáng suốt, bình tĩnh hay lắm con ơi!
Sau ngày hòa binh số chị em thấy dì già kêu sửa sọan trang điểm lại và… bỏ trầu cho trẻ lại. Ngày xưa muốn cho già thì dễ ợt, giờ muốn cho trẻ lại làm sao đây! Dì chỉ bỏ được trầu mà tuổi vẫn già. Lỡ làng rồi con ơi! Số con trai thấy dì ngại, chỉ còn đàn ông chết vợ, hoặc thôi vợ. Khổ nỗi đàn ông thôi vợ, chết vợ đều có con, có gia sản người ta sợ dì vô ăn của. Bề nào dì thấy cũng khó, như anh hai Thường xưa ở huyện đội quen biết dì, nay vợ chết có hai con, cậy người mai mối tìm cách trì hoản lần lựa, ông ấy đợi 3 năm không được nên gá nghĩa với người khác. Dì nghĩ phận gái mười hai bến nước gì đó, sao sao dì cứ lênh đênh hoài.
Dì Hai vuốt tóc tôi, thấy dì vui tôi hỏi:
-Còn ông Tư Thâm ở quân khu gì đó sao rồi!
Dì Hai nhìn tôi: “ Nhỏ này theo dõi dì dữ ha! Có gì đâu, ông Thâm thương dì lắm, nhưng dì không thích ông ấy ở chỗ không hợp nhau về nhận thức. Việc dì cho là đúng thì ông ấy ngược lại, chính vì lẽ đó mà dì từ chối. Dì nghĩ, vợ chồng là nơi nương tựa thể xác lẫn tâm hồn, mà tâm hồn không là chỗ dựa cho nhau thì làm gì có hanh phúc. Đã biết trước như vây thà dì ở một mình với con cháu còn hơn, khỏi phải phiền lụy ai.
Tôi ngon miệng hỏi tới:
-Có lần nào đó ông Thâm về ngủ đây, dì có gì với ổng không!
Dì Hai biểu môi:
-Dì đâu có dễ con, nếu dì dễ dãi đâu còn tới ngày nay. Đêm ấy ông Thậm bày trái cây ra ăn, ông rà rê ngồi gần dì. Dì để thử coi sao. Chuyện qua lại một hồi ổng nắm tay ôm dì hôn. Dì nghiêm mặt: Nè! Anh buông em ra, cứ ngồi yên nói chuyện em chìu tới sáng. Còn… cái gì nữa dứt khoát không được! Chưa phải vợ chồng nên giữ thái độ với nhau. Thấy ổng có vẻ sường sượng dì xuống nước nhỏ nhẹ: “ Khi vợ chồng nhau thì gì cũng được, giờ đừng làm vậy em không thích! Đợi đi! Cái gì tới nó sẽ tới mà!
Tôi thấy dì Hai cởi mở nên tôi trêu:
-Có được như vậy không dì?
– Sao mà không! Ngày xưa lúc dì còn trẻ mà không ngã lòng huống hồ gì bây giờ! Hôm đó, huyện đội ăn mừng chiến thắng, cuộc vui tàn trời cũng đã khuya dì lần theo dấu trăng non về cơ quan. Vừa qua khỏi bui trăm bầu có người đi theo dì nhìn lại thấy K bộ đội huyện anh ấy nói đưa dì về cho vui. Thấy vậy hai người cùng đi vừa khuất bụi chuối bất thần anh ấy ôm dì miệng nói: “ Anh thương em nhiều lắm Quỳnh ơi!” Dì nghiêm mặt: “ Đề nghị đồng chí nghiêm chỉnh buông em ra, nếu không…” Anh ấy từ từ buông lỏng vòng tay. Đêm ấy về cơ quan dì thấy thương người ấy, nhưng tại người ấy bất chợt làm dì bị xốc. Vậy mà người ấy đeo đuổi dì nhiều năm, rôi chiến tranh bom đạn dần dần chia tách người một nơi. Dì nhiều đêm nghĩ tới vòng tay của đàn ông vừa ấm, vừa cứng rắn lạ lắm! Hôm đó nếu như người ấy không buông ra cứ nài nỉ tới chắc dì… xiêu lòng buông xuôi cho số phận. Giờ nghĩ lại đúng là duyên phận.
Chuyện đời của dì Hai chỉ có tôi biết, má tôi không biết, Vân thì lại càng không biết! Tới giờ nó cứ nghĩ mình là con ruột. Ngày tôi nhận bằng tốt nghiệp đại học dì Hai ôm bó hoa đẹp lên tặng cho tôi. Mắt dì vui mừng không thể tả, dường như thời con gái của dì dồn hết cho tôi cùng với niềm vui trọn vẹn. Chừng như tôi là sự kế thưa của dì, cái bóng thời con gái của dì dành lại cho tôi. Có lần vuốt tóc tôi dì nói: “Tóc của con đẹp như dì thời con gái!” Tôi nhìn sâu vào đôi mắt nhăn nhúm của dì lòng bỗng dậy một chút xót xa thương cho đời dì đã gần đất xa trời mà chưa biết một lần với đàn ông dù đã làm mẹ và sắp làm bà. Thấy bạn bè tổ chức cưới hỏi khoác vai nhau vui cười, tôi chợt nhớ đến dì Hai. Nhớ dáng dì đi chợ về với đám con nít đón, dì còm lưng xuống đấm đấm trên lưng hát: “ Bà còng đi chợ về trưa, bỏ quên cây gậy ai đưa bà về!” Đám con nít vỗ tay hát theo : “ Bà còng đi chợ về trưa. Bỏ quên cây gậy cháu đưa… bà về!!!”
Tôi thương dì rưng rưng nước mắt. Khóc cho dì Hai, khóc cho người đàn bà với chút buồn con gái.
BT: Vương Chi Lan